Hợp tác và phản kháng Chiến tranh Trung–Nhật

Chiến lược kháng chiến của Trung Quốc

Chiến lược của Trung Quốc để đẩy lùi quân xâm lược Nhật Bản có thể được chia thành hai giai đoạn chính:

Giai đoạn 1: 7 tháng 7 năm 1937 (Sự biến Lư Câu Kiều) – 25 tháng 10 năm 1938 (Trận Vũ Hán)

Không giống như Nhật Bản, Trung Quốc không có sự chuẩn bị cho chiến tranh toàn diện và ít sức mạnh công nghiệp quân sự, không có sư đoàn cơ giớilực lượng thiết giáp không nhiều. Cho đến giữa những năm 1930, Trung Quốc đã hy vọng rằng Hội Quốc Liên sẽ đưa ra các biện pháp đối phó với sự xâm lược của Nhật Bản. Hơn nữa, trong thời kỳ này, Quốc Dân Đảng ngày càng sa đà vào cuộc nội chiến chống lại Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch coi trật tự nội bộ quan trọng hơn nhiều so với cuộc kháng chiến chống quân Nhật, ông từng nói rằng: "Người Nhật là bệnh ngoài da, Cộng sản mới là bệnh trong tâm".[51]

Lính Trung Quốc giao tranh từng nhà trong trận Đài Nhi Trang, tháng 3 – tháng 4 năm 1938

Tưởng biết rằng ngay cả trong tình huống bất lợi này, nếu Trung Quốc chứng tỏ khả năng chiến đấu hiệu quả thì có thể giành được sự ủng hộ của Hoa Kỳ và các quốc gia dân chủ khác. Ông nhận ra rằng việc rút lui vội vàng sẽ không thu hút nguồn viện trợ nên quyết định đặt hết mọi thứ vào trận Thượng Hải, sử dụng những sư đoàn tốt nhất do Đức đào tạo để bảo vệ thành phố công nghiệp hóa lớn nhất Trung Quốc khỏi quân Nhật. Trận chiến kéo dài ba tháng, cả hai bên đều chịu tổn thất đáng kể và kết thúc bằng việc Trung Quốc rút lui. Mặc dù quân Trung Quốc thất bại nặng nề nhưng hiệu quả tinh thần là rất lớn. Họ chứng minh rằng việc đánh bại họ không hề dễ dàng, thể hiện quyết tâm của họ trước toàn thế giới. Trận chiến còn trở thành nguồn động lực tinh thần to lớn cho người dân Trung Quốc vì nó giáng một đòn mạnh vào lời nhạo báng của người Nhật rằng họ có thể chinh phục Thượng Hải trong ba ngày và Trung Quốc trong ba tháng.

Mục tiêu tiếp theo của Trung Quốc là kiếm thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến. Họ muốn trì hoãn cuộc tiến công của quân Nhật càng lâu càng tốt để các cơ sở công nghiệp ở hậu phương có thêm thời gian rút lui về phía tây đến Trùng Khánh. Quân đội Trung Quốc thực hiện chiến lược tiêu thổ kháng chiến, phá hủy đê đập gây lũ lụt quy mô lớn, làm chậm đáng kể bước tiến của quân Nhật. Không chỉ các nhà máy mà nguyên liệu thô, hàng chục nghìn công nhân, trường đại học, thư viện và tất cả các tài sản lưu động đều được di chuyển về phía tây. Quân Trung Quốc còn cung cấp cho công ty di dời nhiều quyền lợi.[106]

Giai đoạn 2: 25 tháng 10 năm 1938 (Trận Vũ Hán) – 7 tháng 12 năm 1941 (Trận Trân Châu Cảng)

Quốc dân Cách mệnh Quân hành quân ra trận năm 1939

Trong giai đoạn này, mục tiêu chính của quân đội Trung Quốc là trường kỳ kháng chiến để làm cạn kiệt nguồn dự trữ nguyên liệu thô của Nhật Bản, đồng thời tự xây dựng các cơ sở công nghiệp quân sự. Tướng Mỹ Joseph Stilwell gọi chiến lược này là "giành chiến thắng bằng cách sống lâu hơn". Quốc dân Cách mệnh Quân đã sử dụng chiến thuật dẫn dụ quân Nhật đến một điểm nhất định để phục kích, tấn công bên sườn và bao vây trong các trận giao tranh lớn. Chiến lược này đã thành công trong việc bảo vệ Trường Sa hai lần vào năm 1939 và năm 1941, khiến Lục quân Đế quốc Nhật chịu tổn thất nặng nề.

Trong khi đó, các lực lượng kháng chiến tự phát ở địa phương liên tục quấy rối quân đội Nhật Bản khiến việc kiểm soát các vùng đất rộng lớn của Trung Quốc trở nên khó khăn hơn. Năm 1940, Bát Lộ Quân của Đảng Cộng sản mở một cuộc tấn công quan trọng[107] ở Hoa Bắc, họ làm nổ tung đường ray xe lửa và một mỏ than quan trọng. Những hoạt động quấy rối và phá hoại liên tục này đã khiến Lục quân Đế quốc Nhật Bản cực kỳ phẫn nộ và áp dụng "Chính sách Tam Quang" (giết hết, cướp hết, đốt hết). Nhà sử học Himeta Mitsuyoshi cho biết Chính sách Tam quang đã khiến 2,7 triệu người Trung Quốc thiệt mạng.[108]

Đến năm 1941, Nhật Bản đã chiếm phần lớn miền bắc và ven biển Trung Quốc nhưng chính quyền trung ương và quân đội Quốc Dân Đảng đã rút về vùng nội địa phía tây để tiếp tục kháng chiến, trong khi Đảng cộng sản Trung Quốc vẫn kiểm soát các khu căn cứ ở Thiểm Tây. Hơn nữa, sức mạnh thực tế của quân Nhật chỉ mở rộng đến các tuyến đường sắt và thành phố. Họ không có sự hiện diện quân sự hoặc hành chính lớn ở vùng nông thôn Trung Quốc rộng lớn, nơi quân du kích Trung Quốc tự do hoạt động.[109] Thế trận bế tắc này càng khiến Nhật Bản không chắc chắn về khả năng có một chiến thắng quyết định.

Liên minh Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản

Đại nguyên soái Tưởng Giới Thạch, Tổng tư lệnh Đồng minh trên chiến trường Trung Quốc từ năm 1942 đến năm 1945Tư lệnh Bát Lộ Quân, Chu Đức với mũ biểu tượng Bạch Nhật Thanh Thiên của Quốc dân đảng

Giữa Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản đã xảy ra cuộc nội chiến vào năm 1927.[110] Tháng 10 năm 1934, lực lượng Hồng quân của Cộng sản buộc phải rời khỏi căn cứ địa của họ, tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh. Cuộc hành trình kéo dài đến 25 ngàn dặm (12.000 km), bắt đầu từ Giang Tây, tiến về phía tây tới Tây Tạng rồi đi ngược lên phía bắc, tới tận Diên An của tỉnh Thiểm Tây.[111] Cuộc nội chiến vẫn tiếp diễn mà không có bên nào giành được thắng lợi.

Vào ngày 12 tháng 12 năm 1936, Trương Học Lương tiến hành binh biến, bắt giữ Tưởng và buộc ông phải cam kết hòa hoãn với Đảng Cộng sản.[51][112] Cả hai phía Quốc – Cộng sau đó ngưng các hoạt động quân sự để thành lập Mặt trận thống nhất Trung Quốc đệ Nhị vào ngày 24 tháng 12, tập trung vào chống kẻ thù chung là đế quốc Nhật.[112] Mặt trận thống nhất chính thức thành lập vào ngày 23 tháng 9 năm 1937, khi Quốc dân Đảng công khai tuyên bố sẵn sàng hợp tác với những người Cộng sản.[51] Tuy nhiên, sự hợp tác giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản chưa bao giờ thực sự thống nhất vì mỗi bên đều ngấm ngầm chuẩn bị cho một cuộc đối đầu với bên kia một khi đánh đuổi được quân Nhật.[113] Hồng quân Trung Quốc tránh đối đầu trực diện với quân đội Nhật Bản mà để cho quân đội Quốc Dân Đảng thực hiện cuộc chiến tranh chính quy chống Nhật. Họ tiến hành chiến tranh du kích tại các vùng lãnh thổ mà Nhật chiếm đóng[114].

Sự hợp tác ngay từ đầu đã tồn tại nhiều mâu thuẫn. Ngay trong Mặt trận thống nhất Trung Quốc, cả Quốc dân đảng lẫn đảng Cộng sản đều tìm cách chiếm ưu thế ở những lãnh thổ không nằm trong tay quân Nhật.[113] Tình hình trở nên xấu đi vào cuối năm 1940, đầu năm 1941 khi giữa Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng có xung đột lớn. Tháng 12 năm 1940, Tưởng Giới Thạch ra yêu sách với Tân Tứ quân của Đảng Cộng sản, yêu cầu Tân Tứ quân phải rời khỏi An HuyGiang Tô. Do phải chịu sức ép nặng nề, các lãnh đạo Tân Tứ quân phải chấp thuận. Năm 1941 lại xảy ra "sự kiện Tân Tứ quân", cả hai phía Quốc – Cộng đều xung đột khiến cho vài ngàn quân thuộc Đảng Cộng sản thiệt mạng. Sự kiện này đánh dấu sự chấm dứt của Mặt trận thống nhất chống Nhật.[115]

Đồng minh phương Tây tham chiến

Tuyên chiến chống Nhật của Chính phủ Quốc dân đảng tại Trùng Khánh ngày 9 tháng 12 năm 1941Đại nguyên soái Tưởng Giới Thạch và phu nhân cùng với Trung tướng Joseph Stiwell vào năm 1942, tại Miến ĐiệnVào ngày 18 tháng 2 năm 1943, Bà Tưởng Giới Thạch phát biểu trước cả hai viện của Quốc hội Hoa KỳMột áp phích của Hoa Kỳ ủng hộ việc giúp đỡ Trung Quốc chiến đấu

Sau trận Trân Châu Cảng, Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật Bản và trong vòng vài ngày, Trung Quốc tuyên bố gia nhập với Đồng minh chống Nhật, Đức và Ý.[51][116] Khi các nước Đồng minh phương Tây tham chiến chống Nhật, Chiến tranh Trung – Nhật trở thành một phần của cuộc xung đột lớn hơn, mặt trận Thái Bình Dương thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Gần như ngay lập tức, quân đội Trung Quốc đã đạt được chiến thắng quyết định trong trận Trường Sa lần ba, trận chiến này đã mang lại cho chính phủ Trung Quốc nhiều uy tín trước các Đồng minh phương Tây. Tổng thống Franklin D. Roosevelt đề cập Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Liên Xô và Trung Quốc là "Bốn cảnh sát viên" của thế giới,[117] nâng vị thế quốc tế của Trung Quốc lên một tầm cao chưa từng có sau một thế kỷ bị các nước đế quốc chiếm đóng.

Tưởng Giới Thạch tiếp tục nhận tiếp tế từ Hoa Kỳ nhưng gặp khó khăn trên đường vận chuyển. Tất cả các cảng chính của Trung Quốc đều bị Nhật Bản chiếm đóng, tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam không sử dụng được sau khi Nhật Bản xâm lược khu vực này vào năm 1940đường Miến Điện cũng bị đóng cửa vào năm 1942, sau khi Nhật Bản chiếm đóng Miến Điện. Do đó, cho đến năm 1945, Trung Quốc chỉ có thể trông chờ vào các loại đạn dược do Không quân Hoa Kỳ vận chuyển qua dãy Himalaya.[118] Ngoài ra, Liên Xô còn không cho phép Hoa Kỳ vận chuyển bom, đạn đến Tân Cương qua vùng lãnh thổ của họ vì quân phiệt của tỉnh, Thịnh Thế Tài quay lưng với những người Cộng sản để theo Quốc dân Đảng. Mặc dù vẫn còn đủ sức để phòng thủ, nhưng quân đội Trung Quốc chưa bao giờ có đủ vũ khí để tiến hành các cuộc phản công lớn chống lại quân Nhật.

Đại nguyên soái Tưởng Giới Thạch, Franklin D. Roosevelt, và Winston Churchill gặp nhau tại Hội nghị Cairo năm 1943 trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

Tại thời điểm đó, Quân đội Hoa Kỳ cử tướng Joseph Stilwell, chỉ huy quân đội Mỹ ở Miến Điện đến Trung Quốc. Ông đã được Tưởng bổ nhiệm làm tham mưu trưởng, đồng thời chỉ huy các lực lượng Hoa Kỳ tại chiến trường Trung Quốc-Miến Điện-Ấn Độ. Sau 5 năm chiến đấu với Nhật Bản, nhiều người trong giới lãnh đạo Trung Quốc hy vọng rằng quân Đồng minh sẽ đảm nhận nhiều trọng trách hơn trong cuộc kháng chiến chống quân Nhật.[119] Tuy nhiên, Stilwell muốn bắt đầu công việc của mình bằng cách cải tổ quân đội Trung Quốc. Điều này đã khiến Quốc dân Đảng và Tưởng Giới Thạch phản đối kịch liệt vì nó sẽ tước đi quyền lực thực tế của họ.[120] Mối quan hệ giữa Tưởng và Joseph sau đó được các nhà sử học mô tả là có nhiều tranh cãi và bất hòa liên tục. Một quan điểm cho rằng lãnh đạo Quốc dân Đảng quá tham nhũng và kém hiệu quả nhưng một số ý kiến khác lại cho rằng sự việc lại phức tạp hơn thế nhiều. Stilwell muốn nắm quyền kiểm soát toàn bộ quân đội Trung Quốc và theo đuổi một chiến lược hiếu chiến, trong khi Tưởng thích một chiến lược kiên nhẫn và ít tốn kém hơn là chờ đợi quân Nhật.[121] Tưởng tiếp tục duy trì thế phòng thủ bất chấp việc Đồng minh kêu gọi tham chiến vì Trung Quốc đã hứng chịu nhiều thương vong trong chiến tranh và tin rằng Nhật Bản cuối cùng sẽ đầu hàng khi đối mặt với sức mạnh áp đảo của Hoa Kỳ. Do đó, các trận chiến ở Thái Bình Dương dần trở thành chiến trường chính ở châu Á, và thay vì tấn công Nhật Bản từ Trung Quốc, quân Đồng minh muốn tiếp cận đất Nhật Bản từ đảo này sang đảo khác như một phần của "chiến dịch nhảy cóc".[122]

Những khác biệt lâu dài về lợi ích quốc gia và lập trường chính trị giữa Trung Quốc, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh vẫn được duy trì. Thủ tướng Anh Winston Churchill đã miễn cưỡng điều quân đội Anh khi nhiều người trong số họ bị quân Nhật đánh tan trong các chiến dịch mở đường Miến Điện trước đó. Mặt khác, Stilwell lại tin rằng việc mở lại con đường là rất quan trọng vì tất cả các cửa khẩu trên đất liền của Trung Quốc đều nằm dưới sự kiểm soát của Nhật Bản. Chính sách "Châu Âu là trên hết" của Churchill không được lòng Tưởng vì nước Anh khi đó yêu cầu Trung Quốc gửi quân nhiều hơn nữa đến Đông Dương để phục vụ cho chiến dịch Miến Điện. Ông thấy rằng họ muốn hy sinh binh lính Trung Quốc để giữ thuộc địa của Anh và ngăn không cho quân Nhật tràn vào Ấn Độ. Tưởng cũng tin rằng Trung Quốc nên chuyển các sư đoàn quân sự của họ từ Miến Điện sang miền đông Trung Quốc để bảo vệ các căn cứ không quân của máy bay ném bom Mỹ, với hi vọng rằng họ có thể đánh bại Nhật Bản thông qua các cuộc oanh tạc. Chiến lược này đã được tướng Mỹ Claire Lee Chennault ủng hộ nhưng bị Stilwell phản đối mạnh mẽ. Ngoài ra, Tưởng còn lên tiếng ủng hộ nền độc lập của Ấn Độ trong cuộc gặp năm 1942 với Mahatma Gandhi, điều này càng làm mối quan hệ giữa Trung Quốc và Vương quốc Anh trở nên xấu đi.[123]

Năm 1943, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tưởng Giới Thạch đã gặp nhau tại Cairo. Tại đó, họ quyết định rằng sau khi chiến tranh kết thúc, Trung Quốc sẽ lấy lại Mãn Châu và đảo Đài Loan.[124]

Năm 1944, tình hình chiến trường của quân Nhật ở Thái Bình Dương trở nên xấu đi nên họ quyết định huy động 500.000 quân và phát động Chiến dịch Ichi-Go, cuộc tấn công lớn nhất của họ trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm tấn công các căn cứ không quân của Mỹ ở Trung Quốc và kiểm soát tuyến đường sắt nối từ Mãn Châu xuống Đông Dương. Chiến dịch đã thành công và chính quyền Trùng Khánh chịu tổn thất lớn, còn quân Nhật thì đạt được nhiều mục tiêu quan trọng và giành quyền kiểm soát gần như toàn bộ mạng lưới đường sắt của đất nước.[125] Hệ quả của trận chiến là Tưởng Giới Thạch cảm thấy không bằng lòng với sự chỉ đạo chiến lược của Joseph Stiwell nên đã bổ nhiệm Albert Wedemeyer lên làm tổng tham mưu mới vào tháng 10 năm đó.[51][126]

Cuối năm 1944, Lực lượng X dưới sự chỉ huy của Tôn Lập Nhân tấn công từ Ấn Độ và Lực lượng Y dưới quyền của Vệ Lập Hoàng tấn công từ Vân Nam. Hai cánh quân hợp lực ở Mong-Yu đánh bật thành công quân Nhật ra khỏi Bắc Miến Điện và bảo vệ thành công đường Miến Điện, huyết mạch chi viện quan trọng của quân đội Trung Quốc.[127] Vào mùa xuân năm 1945, Trung Quốc đã phát động các cuộc tiến công tái chiếm Hồ NamQuảng Tây. Với việc Trung Quốc có tiến triển tốt trong công tác huấn luyện và trang bị, tướng Wedemeyer lên kế hoạch phát động Chiến dịch Carbonado vào mùa hè năm 1945 để chiếm lại Quảng Đông, nơi có cảng biển quan trọng. Từ đó, họ sẽ tiến lên phía bắc đến Thượng Hải. Dẫu vậy, chiến dịch này đã không trở thành hiện thực khi Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki cùng với việc Liên Xô giành thắng lợi ở Mãn Châu khiến Nhật Bản nhanh chóng đầu hàng.[128]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến tranh Trung–Nhật http://ajrp.awm.gov.au/ajrp/AJRP2.nsf/530e35f7e2ae... http://www.info.dfat.gov.au/info/historical/HistDo... http://warmuseum.ca/cwm/newspapers/operations/chin... http://www.zora.uzh.ch/17710/3/Angry_Monk_Disserta... http://www.chinadaily.com.cn/english/doc/2005-08/1... http://www.nmgnews.com.cn/news/article/20030922/20... http://www.news.cn/english/special/jnkzsl/index.ht... http://www.360guoxue.com:8080/tushuguan/Uploads/Do... http://www.americanforeignrelations.com/E-N/Embarg... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/1381991/...